Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

RÈN KỸ NĂNG VIẾT CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH YẾU LỚP 3

Rèn kĩ năng viết chính tả
cho học sinh yếu khối lớp 3

*************
A-/ Phần mở đầu  :

I-/ Bối cảnh của đề tài :
            - Nói chung từ một tác phẩm văn học hoành tráng cho đến một tác phẩm  tầm thường , bao giờ trong đó cũng chứa đựng một điểm chính làm cốt lõi là lỗi chính tả
            -  Mặc khác phân môn chính tả là một trong những phân môn Tiếng Việt ở tiểu học, dạy cho học sinh tri thức và kĩ năng chính tả,phát triển năng lực sử dụng kĩ năng viết vào hoạt động giao tiếp.
-   Chữ viết là kí hiệu bằng hình ảnh thị giác(các hình nét)ghi lại tiếng nói.
-   Chữ viết là một phát ngôn quan trọng của con  người.Trẻ em đến tuổi đi học thường bắt đầu quá trình học tập bằng việc học chữ.
-   Ở giai đoạn đầu (bậc tiểu học) trẻ tiếp tục hoàn thiện năng lực tiếng nói mẹ đẻ.Từ đó bắt đấu dạy cho các em học chữ.Muốn đọc thông viết thạo trẻ phải được học chính tả.
            - Qua đó đề tài chính là nơi mà bản thân muốn  gởi gắm tâm tư , cảm xúc tới người xem . Tùy rung động , tùy xu hướng , tùy lúc , tùy nơi mà bản thân  của mỗi người sẽ đưa những suy nghĩ  vào một đề tài thích hợp cho mỗi bài viết  của mình  .
II-/ Lý do chon đề tài :
             Qua 2 năm  giảng dạy ở khối lớp 3, bản thân nhận thấy học sinh còn viết sai nhiều lỗi chính tả nhất là ở những em học yếu từ đầu năm học, thậm chí còn có cả ở học sinh khá , giỏi . Ở  năm học vừa qua  từ những đức kết kinh nghiệm của bản thân phần nào khắc phục những khó khăn ấy đến cuối năm những học sinh yếu không còn  tình trạng viết sai chính tả nữa đạt từ mức chuẩn kiến thức trở lên , học sinh khá giỏi đều đạt điểm 10. trong  năm  học này tôi đã thực hiện từ đầu năm học hiệu quả một cách đáng kể  . Nên tôi quyết định chọn đề tài: Rèn kĩ năng viết chính tả cho học sinh lớp yếu  .
III-/ Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
     
     1.Phạm vi nghiên cứu:Từ những đúc kết kinh nghiệm của bản thân về :
          -Rèn cho học sinh, học  yếu viết đúng phân môm chính tả ở khối lớp 3 nói riêng   và ở tiểu học nói chung .
       2 .Đối tượng nghiên cứu:
          -Học sinh lớp ba Trường tiểu học Phú Hiệp  Năm học 2010 – 2011và 2011-2012
IV-/ Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu :

-         Một là khắc phục được nhanh chống những lỗi sai của học sinh khi viết chính tả .
-         Giúp học sinh ham thích học môn chính tả để đạt được điểm cao .
-         Phần nào tránh mất thời gian của tiết học .
-         Giúp giáo viên thoải mái về tâm lý trong giảng dạy …

B-/ Phần nội dung :

I-/Cơ sở lí luận :
Các nguyên tắc chính tả không tách rời các nguyên tắc dạy học tiếng Việt .Chính tả là phân môn có tính chất công cụ,tính chất thực hành làm cơ sở cho việc dạy học các phân môn khác của tiếng Việt.Cùng với phân  môn tập Viết , chính Tả cung cấp kiến thức và hoàn thiện kĩ năng tạo ra hình thức vật chất biểu hiện ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp .Mục đích của dạy chính tả là rèn luyện khả năng “đọc thông ,viết thạo”,chủ yếu là viết đúng chuẩn mực và dạng thức viết của ngôn ngữ.
Khi tập nói và  đi học trẻ em mới sử dụng ngôn ngữ ở dạng thức nói.Hệ thống ngữ âm hệ thống từ vựng và hệ thống ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ được hình thành ở trẻ em Việt Nam một cách tự nhiên, tự phát và vô thức , thông qua dạng thức nói.
Bước vào bậc tiểu học, trẻ em mới bắt đầu học chữ tiếp xúc với dạng viết của ngôn ngữ .Để nắm chắc dạng thức viết (biết viết ,biết đọc chữ viết)trẻ em phải học chữ,viết chữ và học chính tả.
Hệ thống chữ viết và hệ thống qui tắt chính tả được hình  thành ở trẻ em qua con đường học vấn một cách tự giác và có ý thức .
Khi viết chữ trình độ tư duy và ngôn ngữ của trẻ em sẽ có một bước phát triển nhảy vọt ; từ tư duy cụ thể trực quan và cảm tính , trẻ em tiến đến tư duy khái quát từu tượng và lí tính , hoạt động ngôn ngữ của trẻ em phát triển , khả năng và lĩnh vực giao tiếp mở rộng .
Hệ thống chữ viết và hệ thống chính tả đối với học sinh cấp tiểu học là tri thức mới mẽ . Nắm bắt được nội dung kí hiệu của hệ thống chữ viết , học sinh có phương tiện tiếp thu , lĩnh hội tri thức khoa học tự nhiên và xã hội , hình thành những phẩm chất có văn hóa .
 Dạy chính tả dựa vào trình độ phát triển ngôn ngữ của trẻ em , tức là trên cơ sở trình độ trẻ em nắm và sử dụng dạng thức nói (hệ thống ngữ âm và các hệ thống bộ phận cấu thành ngôn ngữ ).Ở độ tuổi khác nhau nguồn gốc dân tộc và địa bàn cư trú khác nhau,với những ảnh hưởng tiếp xúc văn hóa trong các cộng đồng có nét riêng ,trình độ nắm và sử dụng dạng thức nói của học sinh ở từng lớp và từng cấp tiểu học không đồng đều .Do đó nội dung hình thức yêu cầu dạy chính tả đề ra phải sát hợp với từng đối tượng .


II-/Thực trạng của vấn  đề :
             Thực trạng là ở học sinh tiểu học các em viết chính tả còn sai rất nhiều , có phải là do ở tiểu học việc nhận dạng chữ viết của cá em còn gặp khó khăn hay do các em chưa đọc thông thạo chữ  . Để giúp các em nắm vững một số qui tắc chính tả , từ đó các em viết không còn sai như trước .
III-/ Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề :
               Mặc dù các em đã đọc thông viết thạo nhưng các em chưa nắm được những qui tắc thì việc viết chính tả của các em còn gặp khó khăn rất nhiều.Dưới đây là những nguyên tắc dạy chính tả:

1.  Nguyên tắc dạy chính tả gắn với việc phát triển tư duy:
                 Phát triển tư duy cho học sinh gắn với sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình dạy học nhằm đảm bảo kết quả việc tiếp thu và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn . Khi phân tích luyện tập , sửa chữa hoặc cung cấp kiến thức mới cần tiến hành theo một số thao tác tư duy để kích thích hứng thú tìm hiểu , giúp học sinh nắm chắc các hiện tượng và tìm ra cách giải quyết đúng đắn các hiện tượng đó.Tránh áp đặt máy móc những qui tắt mà học sinh chưa được gợi mở suy nghĩ để thực hiện một cách tự giác.Trong quá trình dạy chính tả, giáo viên thường xuyên dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh các qui tắt chính tả và ghi nhớ áp dụng vào việc viết văn bản bằng thao tác hệ thống tư duy hợp lí. Qua đó giáo viên cần phải nắm vững các quy tắc chính tả ,ví dụ :
 * Quy tắc ghi phụ âm đầu :
         a) Quy tắc viết k,c,q :
/k/ được ghi bằng ba hình thức khác nhau nhưng phổ biến nhất là bằng chữ cái c , ngoại trừu một số trường hợp sau đây :
- Trước nguyên âm i , e, ê , ví dụ : kỉ niệm ,  thước kẻ , truyện kể , kiên cố , ngày kia…
- Trước âm đệm u được ghi bằng q : ví dụ : quả , quan , quên , quy ...
           b) Quy tắc viết g , gh :
- Trước các nguyên âm i , e , ê và iê , phụ âm (  gờ ) ghi bằng gh , ví dụ : ghi , ghế , ghé …
- phụ âm ghi bằng g trong các trường hợp còn lại
         c) Quy tắc viết ng, ngh
- Trước các nguyên âm i , e , ê và iê ,( phụ âm ng ) ghi bằng ngh ví dụ : nghĩ , nghỉ , nghe , nghệ nghiêng.
- Ghi bằng  ng trong các truờng hợp còn lại …
*   Quy tắc viết d , g , gi  : trong trường hợp này ta cần nhớ nghĩa và cách viết tương ứng . Trong trường hợp còn lại cần phải tra cứu tự điển chính tả :
a) Những từ có phụ âm đầu phân vân giữa d hay gi  :
 - nếu thấy có biến thể tr thì ta viết là gi .
- nếu thấy có biến thể nh thì ta viết là d .
Ví dụ :     giả / trả , giai / trai , giao / trao ,…
               Dàu / nhàu , dòm / nhòm , dện , nhện …
-         Đại bộ phận khác , muốn xác định viết đúng phải dựa vào sự đối lập về nghĩa
Ví dụ :
  Gia : có nghĩa là tăng thêm ( gia hạn , tăng gia , gia vị ,…)
 Gia : nhà ( gia đình , gia trưởng , gia tài …)
Da : lớp da bọc ngoài thân thể người và vật ( da dẻ ,da thịt , da trời ,…)
*Quy tắc viết âm dệm u , o :
   - u viết sau chữ  q : quang , quân…như  đã nêu trên .
- u trước các nguyên âm â , ê , y , yê , ya: phụ huynh , hoa huệ , dấu huyền , trời khuya, uyên ương ,…
 - o trước các nguyên âm a, ă ,e : khoa , khoan , khoăn , khoe ,…
    * Quy tắc viết một số nguyên âm làm âm chính :
 - Nguyên âm a , ă khi đứng trước y và u , nód được viết là a . Ví dụ : đỏ au , tay chân , ( so sánh với :  ao làng , ai oán ) .
- Quy tắc viết nguyên âm đôi : iê , uô , ươ :
 ie , ye ,ia , ya
 - Viết ie liền sau âm đầu trước âm cuối : ví dụ : chiến công , tiên tiến ,…
 - Viết ye sau âm đệm , mở đầu tiếng , trước âm cuối : tuyên truyền , thuyền quyên , niêm yết ,…
- Viết ia  sau phụ âm đầu không có âm cuối : chia phần , tứ phía , cây mía ,…
Viết ya  sau âm đệm , không có âm cuối : trời khuya ,…
-         ua , uô :
-         Viết ua khi không có âm cuối : : của cải , mua chuộc ,…
-         Viết uô khi có âm cuối : suối tiên , muôn trùng ,…
-         Viết ưa , ươ :
-         Viết ưa khi không có âm cuối : lưa thưa , mưa móc ,…
-         Viết ươ khi có âm cuối : yêu nước , thương nòi ,…
-         Quy tắc viết nguyên âm i , có thể được viết bằng  i , y :
-         Viết i sau âm đầu : bình minh , bi quan , …
-         Viết y sau âm đệm : quy hoạch , bi luỵ , luỹ hoa ,…
-         Khi nguyên âm i đứng một mình thì i đối với từ thuần việt ỉ eo , ì ạch ; viết y đối với từ gốc Hán : y tá ,ý kiến ,…

* Ngoài ra còn có một số quy tắc ghi thanh điệu ; quy tắc viết hoa  theo Quyết định  số 07 /2003 /QĐ – BGD& ĐT ngày 13/3/ 2003 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo .
Ví dụ : tên người và tên địa danh
              Hồ Chí Minh , Trần Hưng Đạo ,… Phú Tân , An Giang ,…

2. Phương pháp chữa các lối chính tả thông thường :
Trong thự tế , lỗi chính tả rất đa dạng . Để khắc phục lỗi chính tả ,
tập phát âm đúng . Phát âm đúng được hiểu là phát âm theo chuẩn . Có phát âm đúng thì mới viết đúng . Vì chính tả tiếng Việt là chính tả ghi âm . Tuy nhiên , đây là yêu cầu rất khó thực hiện do cách phát âm của mỗi em học sinh . Các em có luyện tập trước và cố nhớ từng chữ một . Nhiều trường hợp chính tả khó quy về quy tắc mẹo . Bởi vậy , cách tốt nhất là phải kiên trì , nhẫn nại học và nhớ từng trường hợp .
 Sau đây , bản thân chỉ đề cập đến một số lỗi chính tả  tiêu biểu để có thể sửa sai cho các em . Chia làm ba loại : Các lỗi về dấu thanh , các lỗi về vần và các lỗi về phụ âm đầu

                  
                   Ngoài ra,  muốn viết đúng chính tả các em còn phải nắm vững cấu tạo của âm tiết . Âm tiết trong tiếng Việt là một tổ hợp âm thanh có tổ chức chặt chẽ được biểu thị sơ đồ sau:

Thanh
Âm đầu
Vần
Âm  đệm
Âm chính
Âm cuối

                        - Vần là một khối rất chặt.
                        - Thanh phủ trùm lên đầu các phần âm đầu và vần.
                        - Thanh và vần kết hợp rất chặt chẽ. Ví dụ chỉ có âm chính thôi cũng thành tiếng được, như ô (dù) - gồm có: Âm chính + thanh ngang.

                        Từ những lý do trên bản thân tôi thấy học sinh lớp 3 ở lớp mình thường mắc những lỗi chính tả như sau:

2 . .Mô tả lỗi sai:
            2.1/ Sai âm đầu:

                        Tr – ch  : Thống kê 22 bài của học sinh thấy có 05 em - chiếm 23 % viết sai tr thành ch.
                        Ví dụ như em Thuỳ Dương  lớp 3B viết bài tập 2a trang 56 SGK TV3 tập1 :
“Mình chòn , mũi nhọn.
Trẳng phải bò châu .
Uống nước ao sâu
Lên cày ruộng cạn .”
   * Trong trường hợp này giáo viên phải nắm  chắc để hướng dẫn học sinh :